|
1. Mô tả hình thái
Cây trẩu là một loài
cây bản địa có dầu đã được trồng ở Việt Namtừ lâu đời. Đây là một loài cây đặc
sản đã từng có thời kỳ mà sản phẩm của nó rất được ưa chuộng trên thị trường
trong và ngoài nước. Trẩu thuộc loại cây gỗ trung bình có thể cao 15 – 16m. Vỏ cây
nhẵn màu nâu nhạt, cành non màu lục. Lá đơn mọc cách cuống dài 7 – 12cm (cá
biệt dài 20cm), phiến lá xẻ 4-5 thuỷ sâu nhưng cũng có lá xẻ nông và lá nguyên
hình tim ở đầu cành. Hoa đơn tính cùng gốc hoặc khác gốc, mọc thành chùm hoa
đực riêng, hoa cái riêng. Chùm hoa đực có nhiều hoa có thể 100-250 hoa trong
khi chùm hoa cái chỉ khoảng 5-50 hoa một chùm. Quả nang hình cầu đường kính
4-5cm, khi già hoá gỗ mỗi quả có 3 hạt, hạt có vỏ cứng màu nâu sẫm, phôi nhũ
màu trắng. Tỷ lệ chế biến 3-4kg quả được 1kg hạt, 1kg hạt có khoảng 300-400
hạt. 2. Đặc điểm sinh thái
Trẩu có sinh trưởng và
ra hoa kết quả tốt ở các điều kiện khí hậu á nhiệt đới thiên về nhiệt đới ẩm
với các đặc điểm: Nhiệt độ trung bình năm 20-250C, lượng mưa
1600-2500mm, số tháng khô có thể 3-4 tháng. Về đất, trẩu mọc rất tốt trên các
loại đất feralit vàng đỏ hoặc đỏ vàng có tầng dày >80cm trên các loại đá mẹ
biến chất hoặc trầm tích như phiến thạch sét, gnai, phiến thạch mica, poocphia,
bazan… có thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt trung bình, mùn 1,5-3%, đạm
0,1-0,2%. Cây mọc tốt trên đất có độ pH = 5-5,5.
3. Phân bố, thu hái và
chế biến
Cây trẩu mọc hoang và
được trồng ở nhiều vùng từ cao đến thấp, miền núi cũng như đồng bằng ở khắp
nước ta. Trẩu ưa đất mát, thoát nước, trên các dốc. Hầu hết các tỉnh đều có
trẩu, miền Bắc như Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Hoà Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc,
Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, miền Trung như
Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Tại Hoa Nam Trung Quốc trẩu mọc và được trồng ở
các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây.
Tuy trẩu không đòi hỏi
đất lắm nhưng những nơi nào đất không có độ xốp vừa phải, đất không mát và
không đủ tốt thì cây trẩu chóng chết. Ở những đất thích hợp, cây trẩu mọc rất
nhanh, ra hoa ngay vào vào năm thứ 2 hay thứ 3, cành mọc thành tầng ngang, đều,
ngay khi còn ít năm đã có thể cao tới 12-15m. Có thể trồng để che phủ chè, dứa,
hoàng tinh hay cà phê. 100kg hạt cho trung bình 52kg nhân, 46,74kg vỏ hạt (hạt
hụt chừng 1,26%). Một tạ hạt (cả vỏ) cho chừng 19-20kg dầu và 60-65kg khô. 4. Thành phần hoá học
Hạt trẩu có chứa tới
50-70% dầu. Dầu trẩu lỏng màu vàng nhạt, chóng khô. Trong dầu trẩu có chừng 70
đến 79% axit stearic, 8-12% axlinoleic, 10-15% zxit oleic.
Dầu trẩu mau khô, khi kết thành màng có tính chất chống ẩm chịu được thời tiết biến
đổi cao, sức co giãn tốt có tác dụng chốc gỉ.
Trong lá và hạt có
saponorit độc không thể dùng làm thức ăn cho gia súc được.
5.
Công dụng và liều dùng
Hiện
nay công dụng chủ yếu của trẩu chỉ là dùng hạt lép dầu để pha sơn , quét
lên vải cho khỏi mưa ướt. Giá trị xuất khẩu rất cao. Khô trẩu chỉ dùng chỉ
mới dùng làm phân bón ruộng. Làm thuốc người ta dùng nhân hạt trẩu đốt thành
than, tán bột hoà với mỡ lợn bôi chữa chốc lở, mụn nhọt. Vỏ cây trẩu sắc với
nước dùng ngậm chữa đau và sâu răng. Ngày ngậm nhiều lần, nhổ nước đi không
được nuốt.
6.
Một số bài thuốc từ trẩu
- Bài
thuốc chữa sâu răng và đau nhức răng
Chuẩn
bị: Rễ chanh, cây trẩu, rễ cà dại và vỏ cây lai mỗi thứ một lượng vừa đủ.
Thực
hiện: Sắc đặc rồi dùng nước ngậm và nhổ. Thực hiện nhiều lần trong ngày đến khi
khỏi thì thôi.
- Bài
thuốc chữa mụn nhọt, chốc lở
Chuẩn
bị: Nhân hạt trẩu.
Thực
hiện: Đốt thành than, tán bột mịn rồi hòa với mỡ lợn, sau đó thoa trực tiếp
vùng da cần điều trị. Sử dụng nhiều lần trong ngày cho đến khi da lành hoàn
toàn.
|
|